Mỗi
vùng miền đều có một đặc trưng cưới hỏi riêng mà nếu tìm hiểu quá chắc chắn sẽ
rất thú vị. Miền Bắc, miền Trung, miền Nam mỗi miền sẽ có cái hay riêng và nếu
cô dâu chú rể nào thuộc hai miền khác nhau thì có thể sẽ có một nghi lễ cưới cực
kỳ ấn tượng.
Lễ
cưới miền Bắc
Nghi
lễ cưới ở miền Bắc phải giữ 3 lễ:
Dạm
ngõ: là lễ tiếp xúc đầu tiên, chính thức của hai gia đình nhà trai và nhà gái,
được xem là thủ tục cần thiết để "chỗ người lớn" thưa chuyện với
nhau. Sau lễ dạm ngõ, người con gái được xem như có nơi có chốn, bước đầu tiến
tới chuyện hôn nhân.
Lễ
ăn hỏi: Gia đình dù giàu hay nghèo cũng không thể thiếu cơi trầu. Một lễ ăn hỏi
của người Hà Nội phải có cốm và hồng. Nếu gia đình khá giả, ngoài cốm, hồng
và trầu cau còn có thêm lợn sữa quay. Ðồ lễ ăn hỏi gắn liền với đặc sản của các
vùng như: bánh cốm, bánh su sê, mứt sen, chè, rượu, trầu cau, thuốc lá... Thông
thường ăn hỏi gồm có 3 lễ: đàng nội, đàng ngoại, tại gia.
Lễ
cưới: Sau khi ăn hỏi khoảng 10 ngày, lễ cưới được tổ chức. Ngày xưa, lễ rước
dâu có rất nhiều thủ tục, đi đầu đám rước là những người giàu có, địa vị trong
làng xã. Khi đón dâu ra đến đầu làng còn có lễ chăng dây, muốn đi qua phải đưa
một ít tiền. Ăn uống, tiệc tùng diễn ra trước khi cưới 1 ngày.Ðám cưới bắt đầu
bằng thiệp báo hỷ, khi đưa thiệp mời cưới phải đưa kèm theo chè và hạt sen (lấy
từ lễ ăn hỏi). Ðến nay tục này vẫn còn được giữ lại.
Trong
lễ đón dâu, cô dâu chú rể phải làm lễ gia tiên như một sự tưởng nhớ đến cội nguồn,
tổ tiên. Sau lễ thành hôn, hai vợ chồng trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ
gia tiên gọi là lễ lại mặt. Sau đó, bố mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà thông
gia vì trong lễ cưới mẹ cô dâu không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường tiến hành
vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau lễ cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ).
Lễ
cuới miền Trung
Quy
trình tổ chức lễ cưới ở miền Trung cũng có đủ các bước từ lễ chạm ngõ, hỏi cưới,
đến vu quy. Đám cưới miền Trung thường diễn ra giản đơn, không phô trương nhưng
ở mỗi phần cụ thể khá cầu kỳ với quan niệm "trọng lễ nghi khi (khinh) tài
vật".
Trước
khi chuẩn bị lễ hỏi, cưới, người ta thường xem ngày giờ tốt xấu, có khi lên
chùa thỉnh ý các cao tăng. Sau khi chọn được ngày giờ đẹp, hai bên thông gia sẽ
báo cho nhau bằng một cuộc thăm đơn giản. Việc này đôi khi do đôi bạn trẻ thực
hiện nhưng phải là hai nhà có thân tình từ trước.
Ðối với đám hỏi, người miền Trung chỉ xem là buổi gặp mặt giữa hai gia đình và
họ hàng thân thích để giới thiệu đôi bạn trẻ, không tổ chức rầm rộ. Ðám cưới có
các lễ: xin giờ, bái tơ hồng, rước dâu diễn ra ở nhà gái, đón dâu, trình báo
gia tiên ở nhà trai. Người miền Trung không có tục thách cưới. Lễ vật tối thiểu
chỉ gồm: mâm trầu cau, rượu trà, nến tơ hồng, bánh phu thê. Nếu khá giả, nhà
trai có thể thêm bánh kem, bánh dẻo, không có "lợn quay đi lộng" như
nhiều nơi. Ngoài ra, đám cưới ở miền Trung thường có phù dâu, phù rể và hai đứa
trẻ thường là một trai, một gái tuổi tương đương cầm đèn hay cầm hoa đi trước
Khi
đưa dâu, thông thường bố mẹ cô gái không đi cùng mà hôm sau mới sang nhà trai với
ý nghĩa xem con gái ngày đầu về làm dâu có gì phật lòng nhà chồng không. Buổi gặp
này, hai bên thông gia đối đáp những câu khách sáo, nhắn gửi con cái cho nhau,
căn dặn con mình phải thuận thảo với gia đình.
Trong
phòng tân hôn phải có: một khay lễ với 12 miếng trầu, đĩa muối, gừng và rượu
giao bôi. Ðôi bạn trẻ phải nhai hết 12 miếng trầu, tượng trưng cho 12 tháng hòa
hợp trong một năm, 12 năm hòa hợp tuần hoàn trong một giáp âm lịch. Việc ăn muối,
gừng mang màu sắc dân gian, biểu tượng nghĩa tình nồng thắm. Rượu giao bôi theo
đúng với lễ giáo phong kiến của Trung Hoa cũ.
Hiện
nay, lễ này đã được nhiều gia đình miền Trung giảm bớt. Khi rước dâu, bố cô gái
theo về nhà trai bằng một chiếc xe khác, tại tiệc đãi sẽ trao đổi với nhà trai.
Ba ngày sau lễ cưới, cô dâu mới được trở về nhà bố mẹ đẻ để thu dọn tư trang, bắt
đầu cuộc sống mới tại nhà chồng.
Tính
cầu kỳ của người miền Trung tại lễ cưới chủ yếu trong cách hành xử. Không ầm ĩ,
ồn ào, thái quá trong các lễ và tiệc cưới. Việc thưa gửi, trình bày của chủ
hôn, bố mẹ hai bên rất cầu kỳ và không bỏ sót.Vị chủ hôn thường là cao niên
trong dòng tộc hai bên, thân thuộc với gia đình, vợ con đầy đủ, không tật bệnh,
tuổi không khắc kỵ đôi tân hôn. Các phù dâu, phù rể là người chưa có chồng, vợ,
tính tình vui vẻ nhanh nhẹn.
Việc
bài trí phòng tân hôn phải do một người phụ nữ lớn tuổi, phúc hậu sửa soạn. Lễ
vật rước dâu, nhà trai nhờ một người cao tuổi, đủ vợ chồng con cái, gia đình
hòa thuận kiểm tra. Sau khi lễ xong, cặp nến hồng được người này thổi tắt. Số
người nhà trai đi rước dâu luôn ở số chẵn. Khi đón dâu, nhà trai thường cử vài
người đàn ông trẻ tuổi hoạt bát, đã có vợ con ra đứng đón sẵn để "lấy
hên" cho đôi tân hôn.
Lễ
Cưới Miền Nam
Lễ
cưới tại miền Nam vẫn được thực hiện với đầy đủ các nghi thức là dạm ngõ, ăn hỏi,
đón dâu. Tuy nhiên, khác với phong tục miền Bắc, trong miền Nam, nếu hai gia
đình ở cách xa nhau thì có thể bỏ qua lễ dạm ngõ, tiến hành chung lễ ăn hỏi và
đón dâu trong cùng một ngày. Khi đó, lễ vật ăn hỏi và lễ vật cúng tổ tiên khi
đón dâu cũng sẽ được gộp chung lại.
Hôn
lễ được cử hành ngay tại gia đình, trong một không gian nghiêm trang và sạch sẽ.
Thông thường các nghi lễ sẽ được thực hiện tại bàn thờ tổ tiên. Họ hàng nhà
trai đến, có người làm mai đi đầu, có một vị trưởng tộc, chú rể bưng khay trầu
có đôi đèn, chú rể phụ bưng khay rượu, đi cùng là ông ba cha mẹ họ nhà trai đi
chẵn đôi, nam nữ bưng lễ vật là bốn hoặc sáu người. Quả vật mang đến nhà gái
ngoài trái cây, bánh kẹo, phải có trầu cau, có cặp đèn (nến) thật to, trùng với
kích thước của đôi chân đèn trên bàn thờ nhà gái.
Trưởng
tộc nhà trai sẽ xin phép nhà gái cho nhập gia trình lễ cưới, khi được nhà gái đồng
ý thì họ nhà trai lần lượt đi vào và chính thức thực hiện các nghi lễ và trình
lễ vật cưới. Họ nhà trai sẽ kính cẩn mời nhà gái uống trà, uống rượu, mời ăn trầu,
hai bên bàn bạc và thống nhất với nhau về hôn nhân của cô dâu, chú rể và thực
hiện nghi thức tặng nữ trang cho cô dâu.
Nghi
lễ quan trọng và thiêng liêng nhất trong đám cưới miền Nam đó là lễ lên đèn.
Đây là một nghi lễ không thể thiếu trong lễ cưới, đó là một lời tuyên bố chính
thức, một sự gắn kết bền chặt giữa cô dâu và chú rể trong suốt cuộc đời. Hai ngọn
nến to do họ nhà trai mang tới sẽ được đặt trang nghiêm trên bàn thờ tổ tiên
nhà gái. Trưởng tộc họ nhà gái tuyên bố: “Xin làm lễ lên đèn”, cô dâu chú rể tự
tay đốt nến từ ngọn lửa của đèn trứng vịt nhỏ trên bàn thờ (hiểu là lửa hương hỏa).
Trưởng tộc khui một chai rượu trong số lễ vật mà nhà trai đem đến và đứng phía
trước chính giữa bàn thờ, cô dâu chú rể đứng hai bên, im lặng. Sau đó cô dâu
chú rể cắm đèn vào chân đèn. Hai ngọn đèn cháy từ từ, đặt sát nhau vì người làm
lễ đang áp vào hai tay, như khấn vái. Sau đó người trưởng tộc sẽ đưa đèn cho
hai người trợ lý cắm vào chân đèn. Hai ngọn đèn phải cháy từ từ và đều nhau, nếu
cháy lệch nhau thì người ta cho rằng, sau này cô dâu sẽ “ăn hiếp” chồng.
Sau đó là lễ rước dâu về nhà trai. Khi hai họ đã có mặt đầy đủ ở tư gia họ nhà
trai thì chú rể phụ sẽ rót rượu cho trưởng tộc họ nhà trai tuyên bố và làm lễ
thành hôn. Cô dâu chú rể lần lượt thực hiện các lễ nghi, đầu tiên là lễ “ông bà
quá vãng” – cùng làm lễ trước bàn thờ, tiếp theo là lễ bái họ tộc, rót rượu mời
họ tộc, ông bà nội ngoại hai bên, lễ bái song thân - cô dâu chú rể cùng dâng rượu
cho cha mẹ, cuối cùng là lễ anh em, bạn bè quan khách đến tặng quà và chúc mừng
cô dâu chú rể. Sau đó trưởng tộc tuyên bố kết thúc buổi lễ thành hôn.